Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng trong BLHS 2015

Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng trong Bộ luật hình sự 2015

Căn cứ pháp lý Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:

Nội dung Điều 182 Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 quy định Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

  1. Cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ một chồng.

     2.1. Khách thể:

     Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm phạm. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ một chồng thì khách thể bị xâm phạm là quan hệ hôn nhân và gia đình.

     2.2. Mặt khách quan:

     Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngoài của người phạm tội bằng những hành vi, cử chỉ, lời nói. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thì người phạm tội thực hiện một trong các hành vi sau đây:

     – Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.

     Theo khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn (Điều 8) và đăng ký kết hôn (Điều 9).

     Điều kiện kết hôn:

     Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện về độ tuổi – Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; tự nguyện quyết định; không bị mất năng lực hành vi dân sự; không thuộc các trường hợp cấm kết hôn.

     Thực hiện việc đăng ký kết hôn ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

     Mặt khác nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 nêu rõ: hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

     Như vậy, người đang có vợ, có chồng là người đã xác lập quan hệ vợ chồng với người khác và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong thời kỳ hôn nhân. Việc người đang có vợ, có chồng kết hôn với người thứ ba không những vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định trong luật hôn nhân gia đình mà còn xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình quy định tại Chương XVII trong Bộ luật hình sự 2015.

     – Người nào đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.

     Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung coi nhau là vợ chồng (khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình).

     Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi nêu trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hậu quả xảy ra như: làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

     2.3. Chủ thể:

     Là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo pháp luật quy định tại Khoản 1 Điều 12 BLHS 2015 như sau:

     + Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ các quy định khác.

     Đối với hành vi kết hôn thì không cần xác định độ tuổi cụ thể vì bản thân điều kiện để kết hôn đã bao gồm cả độ tuổi đủ để chịu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Còn trường hợp chung sống như vợ chồng của người chưa có vợ, có chồng thì người từ đủ 16 tuổi trở lên cũng có thể phải chịu trách nhiện hình sự về tội phạm này.

     2.4. Mặt chủ quan:

     Là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, mục đích và động cơ. Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng là việc thực hiện hành vi với lỗi cố ý, bởi lẽ việc thực hiện hành vi phạm tội này là người phạm tội đã biết rất rõ tình trạng hôn nhân của mình hoặc của người kia nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng.

Như vậy:

Khung hình phạt đối với tội vi phạm chế độ một vợ một chồng là:

  • Khung hình phạt cơ bản (khoản 1): phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 01 năm.
  • Khung hình phạt tăng nặng (khoản 2): phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.


CÔNG TY LUẬT Đ&C ĐÀ NẴNG

>> Luật Sư tư vấn pháp luật Gọi: 0932 50 52 82

>> Luật sư tư vấn pháp luật qua Email : lscuongdn@gmail.com

>> Tham khảo dịch vụ luật sư và kiến thức http://luatminhtam.com

>> Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo.