Giải quyết ly hôn với một bên đang bị truy nã (tiếp)
Giải quyết ly hôn với một bên đang bị truy nã (tiếp theo)
Vậy, vấn đề đặt ra là trường hợp khi một bên vợ hoặc chồng đang bị truy nã mà bên còn lại xin ly hôn thì việc giải quyết ly hôn như thế nào?
2.Giải quyết ly hôn với một bên đang bị truy nã
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, pháp luật tố tụng dân sự trước đây cũng như BLTTDS 2015 không quy định thủ tục giải quyết vụ án đối với trường hợp người bị kiện, bị đơn đang bị truy nã. Tuy nhiên:
- Đoạn thứ hai điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung”.
- Khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án dân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiên, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án có hướng dẫn “Về địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” như sau: “3. Địa chỉ “nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm đ, e khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là địa chỉ người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã từng cư trú, làm việc hoặc có trụ sở mà người khởi kiện biết được gần nhất tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh”.
- Như đã nêu ở trên, người bị truy nã là người đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả. Vì vậy, cần xác định, người bị truy nã là người bỏ trốn, cố tình giấu địa chỉ; khi có đơn khởi kiện của bên còn lại xin ly hôn, Tòa án hoàn toàn có thể áp dụng quy định tại đoạn thứ hai điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 và hướng dẫn tại khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP để thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Về căn cứ cho ly hôn, Điều 56 Luật HNGĐ 2014 về ly hôn theo yêu cầu của một bên:
- Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2.Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3.Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Do đó, theo tác giả, khi giải quyết yêu cầu ly hôn với một bên đang bị truy nã, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ 2014 để giải quyết chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý phân biệt các trường hợp cụ thể như sau:
- Trường hợp thứ nhất: Trước khi bị truy nã, có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án giải quyết cho ly hôn không phụ thuộc vào thời gian đã bị truy nã.
- Trường hợp thứ hai: Trước khi bị truy nã, không có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án phải xem xét thời gian đã bị truy nã là bao lâu. Tòa án căn cứ vào việc người bị truy nã đã vi phạm nghĩa vụ chung sống với nhau của vợ, chồng quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật HNGĐ 2014 để giải quyết. Theo tác giả, trong trường hợp này nên áp dụng việc xác định thời hạn vi phạm nghĩa vụ chung sống của vợ chồng để cho ly hôn tương tự với thời gian biệt tích trong tuyên bố một người bị mất tích. Nghĩa là Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn khi thời gian truy nã từ đủ hai năm trở lên.
Ly hôn là quyền cơ bản của con người và việc một bên xin ly hôn đối với bên đang bị truy nã không bị hạn chế theo quy định của luật nhưng lại chưa được pháp luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng về thủ tục giải quyết cũng như căn cứ để giải quyết ly hôn. Vì vậy, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. (Theo tạp chí Tòa án)
CÔNG TY LUẬT Đ&C ĐÀ NẴNG
>> Luật Sư tư vấn pháp luật Gọi: 0932 50 52 82
>> Luật sư tư vấn pháp luật qua Email : lscuongdn@gmail.com
>> Tham khảo dịch vụ luật sư và kiến thức http://luatminhtam.com
>> Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo.